Thứ Năm, 17 tháng 12, 2009

Lẽ công bằng



Bác thợ cạo cắt tóc cho một cha xứ. Cha muốn trả tiền nhưng bác không đồng ý và nói: "Con không thể lấy tiền của cha được. Cha là một người tốt và cha phục vụ cho Chúa". Sáng hôm sau, người thợ cạo tốt bụng tìm thấy trước cửa nhà mình một tá kinh thánh do cha sứ trả ơn.


Hôm sau, bác cắt tóc cho một cảnh sát và lại không lấy tiền. Bác nói: "Tôi không thể lấy tiền của anh được. Anh là một người tốt và anh bảo vệ cho cuộc sống của chúng tôi". Sáng hôm sau, ông ta tìm thấy trước cửa nhà mình một tá bánh rán của người cảnh sát trả ơn.


Lần này, người thợ cạo cắt tóc cho một luật sư. Bác cũng không lấy tiền: "Tôi không thể lấy tiền của anh được. Anh là một người tốt và anh chiến đấu cho công bằng xã hội". Sáng hôm sau, một tá luật sư chờ trước cửa nhà bác thợ cạo chờ cắt tóc.

416

Thứ Tư, 16 tháng 12, 2009

Kế sách nhà bếp



Kế sách nhà bếp





Bạn lỡ sinh ra dưới ngôi sao xấu! Kém xa đối thủ của bạn về "túi tiền". Hắn chơi xe xịn, bạn xài "Su một trăm năm". Hắn chơi di động, bạn xài điện thoại công cộng. Nhưng bạn đụng độ với hắn trong một cuộc đối đầu không khoan nhượng vì hắn và bạn cùng yêu một cô xinh đẹp. Hãy biến nhược điểm thành ưu điểm, hãy chứng tỏ bạn thông minh hơn hắn. Kế sách, cẩm nang đây:


Ðiều kiện ắt có...


Bạn cũng phải là người được người đẹp cho đến nhà, nghĩa là có qua sơ giao, đã được cho xếp hàng trong đám "sĩ tử" ứng thí. Có được điều tiên quyết ấy bạn hãy:


- Không bao giờ ngồi ở phòng khách, hãy tìm cách lân la xuống bếp trò chuyện với nàng.


- Khi đối thủ của bạn đến thăm nàng. Hắn sẽ ngồi ở phòng khách, bạn hãy đi chân đất, áo quần loàng xoàng càng tốt, bưng nước lên mời hắn với một nụ cười rất thản nhiên "đàn ông tính" (tuyệt đối không nhăn nhó, cau có).


- Sau đó, trở lại bếp ngồi chờ.


...Và đủ


Ðối thủ của bạn sẽ rơi vào tâm lý hoang mang, sẽ thăm dò, sẽ nghĩ ngợi: "Tên đó hẳn phải được gia đình chấp nhận, hắn đã rất thân thiết với nàng (dù thật sự bạn cũng chỉ quen nàng như hắn mà thôi) nên mới dám đến nhà nàng mà ăn mặc lèng xèng, lại từ nhà bếp đi lên". Nghĩa là thôi rồi! Hắn ta sẽ sốt rét và tự êm thắm rút, dương cờ trắng. Còn bạn "bất chiến tự nhiên thành" và nhược điểm yếu kém "túi tiền" của bạn trước đối thủ đã trở thành vũ khí sắc bén, gã nào lò dò đến tìm nàng, bạn cứ bổn cũ soạn lại. Khi chẳng còn "ma" nào đủ kiên nhẫn, tự tin đến chơi với nàng, nàng chẳng còn ai ắt sẽ đành chọn bạn vậy.


Bạn không tin ư? Hãy tin đi, bởi lẽ câu chuyện và kinh nghiệm vừa kể của chính người viết đấy. Vợ hắn hôm nay chính là cô gái ấy, chẳng thể là ai khác. Thế mới khổ!

534

Thứ Ba, 15 tháng 12, 2009

Người Dưng Làm Má



      Chị Diệu về quê khi đoàn cải lương Mưa Bình Minh đang giữa mùa lưu diễn. Tàu ghé đập Bàu Mốp, chị lội một đỗi, gặp má chị đi đám giỗ về, má chị kêu :"Trời đất, con Diệu, sao đi về vào lúc này ?". Chị nghe muốn khóc. Chị, con gái của má, rời nhà từ năm mười bảy tuổi, bây giờ đã bốn mươi. Chưa khi nào gió chướng mang cái ngọn ráo khô bay qua rạch Bàu Mốp mà chị về nhà, kêu má ra cửa sau, chỗ thơm lựng hương cau, nhổ tóc sâu, bảo sẽ ở lại nhà lâu, lâu lắm. Nên má cứ nhìn hồ nghi, có chuyện gì sao con. Chị cười cười không nói gì, hỏi con San đâu. Má chị bảo nó đi đón ghe khóm từ rẫy Thới Bình qua, mua về rồi chèo xuồng dài dài xóm bán lại. Chị nuốt ực nỗi cay đắng vào lòng,"Sao má để nó đi, con nuôi hai người nổi mà !". Bà già bảy mươi ba tuổi nhìn đứa con gái đầu bạc của mình, xót xa :"Bà cháu tao có cần tiền của bây đâu. Tao cũng cản hoài mà nó có nghe đâu. Tánh nó cũng cứng đầu cứng cổ hệt bây, bây biết".

     Chị biết, bởi có lần về, con San mang trả những gói tiền chị đã gởi . Những gói tiền còn nguyên vẹn như còn dính mồ hôi tay chị, nó bảo :"Em cảm ơn, em với ngoại nuôi nhau được, chế đừng lo, chế có tuổi rồi, để tiền hờ khi bệnh hoạn nghe khách sáo như người dưng nói chuyện với người dưng.

     Chị sinh con San cũng ngay mùa này, gió này. Gọi là San, là vì khi Hoàng Bảo từ thành phố tăng cường xuống"Mưa Bình Minh", chị Diệu với anh hát chung tuồng San Hậu. Chị yêu anh lắm, không ai còn có thể nghệ sĩ hơn thế, tất cả con người anh toát lên cái gì đó phong trần, phiêu lãng, thương không chịu được. Chị đặt tên cho đứa con đầu lòng là San vì tin rằng sẽ đẻ cho anh thêm thằng Hậu, nhưng thằng Hậu mãi mãi không bao giờ có. San vừa tròn bảy tháng để nó lại cho má, chị đi. Hôm đó nó đã bú cho thật no rồi, chị ép cho no nữa. Nó ngậm vú chị ngủ ngon lành. Đặt con xuống giường, chị còn thấy cái miệng nhỏ xíu của nó mút mút. Rồi từ đó chị không dám nhìn thêm lần nào nữa, sợ mãi mãi mình không thể nhấc chân đi. Mà chị thì không thể từ bỏ ước mơ của mình, trở thành cô đào hát nổi tiếng. Làm sao từ chối vai diễn đã từng chờ đợi, nàng Trưng Trắc oai hùng trong"Tiếng Trống Mê Linh"?

     Chị yêu vai Trưng Trắc này biết bao nhiêu, người phụ nữ cũng có lúc dao động, mềm lòng khi chồng của mình đang nằm trong tay giặc. Nhưng rồi Trưng Trắc vẫn mạnh mẽ đánh trống xuất quân, nước mắt bi hùng nhỏ xuống mặt trống vang lời ly biệt. Mấy hôm đầu, có lúc sữa xuống nặng, chị Diệu nhớ con quay quắt, chị muốn bỏ hết, về nhà vùi mặt mình vào làn da thơm tho của nó, nhưng nghĩ đến vai diễn của mình, chị ghì lòng lại. Đâu nè, Trưng Trắc đâu có nữ nhi thường tình vậy.

     Vở được đoàn đem đi dự hội diễn toàn quốc, năm đó chị nhận huy chương vàng, bắt đầu có một chút danh tiếng. Chị nguôi dần nỗi nhớ nhà nhớ con. Chị bận lu bù với hàng chục, hàng trăm vở mới. Hồi đầu chỉ mùa mưa chị mới ờ nhà lâu, giữ con cho má đươn thúng, tưới trầu. Sau này trời mưa chị cũng phải đi học bồi dưỡng nghiệp vụ, chánh trị. Chỉ về khi trên đường đi lưu diễn, tiện đường ghé lại, nhiều khi con Phèn còn chạy te te ra sủa. Có lúc thấy cái áo phơi ngoài sào, chị hỏi áo ai, má bảo, áo của con San chớ ai, chị cười, trời đất, nó lớn dữ vậy hả ? Mà không biết mình đang hồn nhiên đứng bên đời, nhìn nó lớn...

     San chưa bao giờ kêu chị Diệu một tiếng má. Khi nó biết nói nó bắt chước mấy dì, gọi chị bằng chế, xưng em. Dạy nó, nó lắc đầu nguầy nguậy,"Hổng phải, chế Diệu hông phải má. Con Thắm mới là má". Nghe lạ, hỏi lại, thì ra chơi nhà chòi, con Thắm đóng vai má con San. Tưởng lớn lên nó sẽ đổi nhưng có những tết gần giao thừa, chị gọi nó lại, biểu kêu má đi. Con San nhìn chị trân trân, tay vò vò vạt áo, nín thinh. Chị rút tiền ra biểu kêu má đi rồi cho tiền. Nó vẫn lặng lẽ đứng nhìn, hồi lâu, nó bảo,"em không biết xài tiền"rồi bỏ ra ngoài trước coi người ta đốt pháo. Năm đó, nó tám tuổi. Giao thừa đang rộn rã ngoài kia, chị Diệu vô buồng ôm lưng má khóc. Má chị biểu"thôi nín đi, rồi từ từ má dạy. Mà, cũng tại mầy...". Nghe người ta hát câu"Con chim se sẻ nó đẻ cột đình. Bà ngoại đẻ má, má đẻ tụi mình..."tim chị quặn thắt. Dường như con San đang đòi món nợ tình thương mà ngày trước chị nợ má. Chị Diệu bỏ nhà theo đoàn hát từ năm mười bảy tuổi, không cách chi mà giữ lại được, không cách chi chị quên giấc mơ xướng ca xiêm áo. Má bắt chị thề"Không thương người cùng giới nghệ sĩ. Không lấy chồng khi qua tuổi hai mươi lăm". Nhưng năm hai mươi, chị về nhà dập đầu lạy má, thưa rằng vì yêu, vì muốn giữ bên mình người chị yêu, chị đã mang đứa con trong mình.

     Má giận quá, nói"hồi đó phải tao sanh ra hột gà hột vịt còn có nghĩa hơn sanh ra con gái như mầy". Giận vậy, nhưng thấy con mình khổ không cầm lòng được biểu"Thôi con, đừng thèm khóc, người ta hay hát,"Ví dầu tình có dở dang. Tự ên thiếp chống đò ngang thiếp về", con người ta nhấc lên được thì bỏ xuống được". Rồi lụm cụm đi trồng thật nhiều sả, chăm chút những cây chanh, cây bưởi quanh nhà cho tốt lá, lột vỏ tỏi để dành xông cho chị sau khi sinh. Lòng má đau con mình dại dột, nó làm vậy là đẩy người ta có cái cớ ra đi chớ có níu được, ràng buộc được người ta đâu.

     Nhưng con San đâu có già được như má, đâu có trải lòng ra để tha thứ như má. Chừng mười, mười hai tuổi, nó nói với má chị :"Má ơi, con không đổi chế Diệu để lấy tiền. Chế Diệu có cho má đừng lấy". Mà chị chỉ biết ôm nó vào lòng, thở dài rồi rầy,"ngoại già rồi, con kêu ngoại bằng má hoài người ta cười bà già khú đế mà còn có con muộn". San thôi kêu ngoại bằng má nhưng tiếng má nó cất mãi trong lòng.

     Nó lớn lên giống Hoàng Bảo như đúc, cũng gương mặt xương xương, cái mũi cao, đôi mắt to, hơi xếch, đôi môi mỏng, đỏ thắm. Nhìn nó, lúc chị Diệu nửa thèm ôm chầm vào lòng, nửa muốn xô ra. Nghĩ thương nghĩ giận người cũ, chị chỉ dám ngồi nhìn nó xa xa. Nên chị không hay nó lạ lùng hơn hết thảy con cái người ta. Nó ít nói, nhưng nói câu nào đáng câu đó. Có lần coi chị Diệu diễn Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài trên tivi, nó ngồi nghễu nghện trên mấy bao lúa chất giữa nhà, nghe mấy đứa bạn reo lên, má con San kìa. Nó nhếch mép cười. Tới đoạn Sơn Bá gặp Anh Đài ở nhà Chúc viên ngoại, biết rõ thân phận nhau, hai người âu yếm ôm nhau đính ước. Con San nói tỉnh bơ :"Ủ, ôm đi, ngoại à, vài bữa nữa người ta đem một đứa nữa về cho ngoại nuôi cho mà coi". Rồi tuột xuống cái độp đi te te vô buồng, biểu :"Con đi ngủ". Nhưng ngoại san biết nó vô đó nằm khóc, vòng tay trìu mến đó, có bao giờ chị Diệu dành cho nó ?

     Câu chuyện làm chị Diệu đau lòng. Chị Diệu sợ con mình cũng như người đời, đánh đồng vai diễn với diễn viên, hễ ai đóng vai ác thì ngoài đời cũng ác, tình tứ với bạn diễn nghĩ ngoaì đời chắc họ cũng yêu nhau. Chị chọn những vai đào võ, rồi nổi tiếng với những nhân vật nữ tướng, tinh tế trong cái nhìn khinh bạt, ngạo nghễ trước kẻ thù và cái chết, oai vũ trong từng động tác đá giáo, lăn tròn theo nhịp roi, đi gối...Ai cũng nói nếu con người ta có số sẵn (như giày dép vậy ) thì số chị Diệu sinh ra là để sắm những vai nữ tướng.

     Riết rồi những vai đào thương, chị Diệu không diễn được. Có những lần giỗ Tổ, đoàn giao cho chị đóng vai Tô Ánh Nguyệt trong trích đoạn gặp lại thằng Tâm, lúc con trai mình mắng mỏ một hồi rồi bỏ đi, Nguyệt kêu,"Tâm, con đuổi má sao con ?", Lệ Thủy diễn xé lòng xé dạ người ta là vậy, nhưng với chị, chỉ câu nói đó thôi sao mà khó khăn quá chừng, tiếng má, nửa đời người chị chưa được con gái mình kêu.

     Nên trả lời phỏng vấn báo chí, chị hay tự trào mình là nghệ sĩ nửa mùa. Khi đi qua mùa nhan sắc của một cô đào hát, chị xin đoàn cho mình đóng vai hề mụ, chị bảo,"tôi hát nhiều năm, khóc hết nước mắt rồi, bây giờ chỉ đóng được vai hài". Và chỉ như thế chị mới không phải sắm vai những bà mẹ, không phải nghe bạn diễn với mình gọi là má à má ơi mà lòng như cắt như đau.

     Hôm rồi, đoàn về hát vở"Cơn Mê"ở chợ Ông Trang, chị đóng vai bà già bán ve chai. Vai nhỏ, chỉ cần quấn khăn lên đầu tất tả gánh cái gánh đi ra, gặp cảnh một tên đầu gấu bức hiếp một cô gái nhà quê, bất bình bà già ra tay nghĩa hiệp. Đơn giản thôi. Vậy mà lúc diễn, nghe cô đào trẻ Thu Mỹ trong vai cô gái nhà quê núp sau lưng chị thét lên :"Cứu con với, má ơi !"bà ve chai bỗng đứng khựng lại, buông vai, sững sờ, khóc. Thu Mỹ cũng gục đầu, nức nở. Khán giả không hiểu gì hết, đầu gấu thấy vậy cương mấy câu. Màn kéo lại, ông phó đoàn kiêm đạo diễn quát văng nước miếng,"Tôi không sao tin nỗi. Một người lúc nào cũng muốn thành diễn viên nỗi tiếng, một người mấy chục năm trong nghề rồi mà ai cũng diễn như một đứa con nít ba tuổi". Hai chị em buồn quá, hỏi Thu Mỹ sao cương câu đó kỳ vậy, cô khóc,"hồi còn ở nhà mỗi lần ba em say rượu, ổng nghe lời má sau, đánh em dữ lắm, không ai bênh, em chỉ biết kêu má, riết quen". Trời ơi, bọn nghệ sĩ mình, gạt bỏ đời đau, sống trọn lòng trên sân khấu, được mấy người ?

     Tan hát rồi, chị Diệu với Thu Mỹ ngồi mãi ngoài bến tàu bên bờ sông Ông Trang. Gió lạnh thổi hiu hút. Thu Mỹ thắc mắc :"Mỗi lần bị đòn đau, mỗi lần gặp chuyện gì buồn, em đều nghĩ đến má trước tiên, sao ngộ vậy chị ?". Chị ngẫn người ra, con San của chị cũng có khi gặp chuyện gì buồn, thế nào nó cũng nhớ tới chị mà chị thì xa cách nó ngàn phương. Vậy đâu có được. Đáng lẽ mình phải ở nhà, nghe nó thủ thỉ chuyện một cậu con trai nào đó hôm qua còn trêu chọc nó, biểu :"để lòng thương nó", hôm nay đã sắm cau trầu đi hỏi vợ khác rồi ( con gái mười tám tuổi mà).

     Sáng sau, chị lại xin phép trưởng đoàn, ông vừa đánh cờ vừa ờ, hờ hững. Chị đi từ giã hết thảy mọi người, ai cũng nghĩ rồi chị sẽ trở lại. Chị yêu sân khấu đến thế kia mà.

     Chỉ Thu Mỹ biết chị sẽ không bao giờ quay trở lại. Đêm qua, chị ôm cô ngủ, chị nói, chị thương Thu Mỹ lắm, thương từ lúc cô mới vô đoàn, mười sáu tuổi đầu mà khuôn mặt đã già đi, dày dạn như con San của chị. Chị thương Thu Mỹ vì thấy cô giống hệt chị hồi đó, nồng nhiệt, tự tin, với tấm lòng trong trẻo tưởng rằng có thể thâu tóm được đất rộng, trời cao. Lúc nào cũng khao khát vinh quang nhưng không biết rũ bỏ nỗi đau riêng để hết mình trên thánh đường sân khấu. Chị nói chắc chị thôi nghề hát, về nhà làm con của má, làm má của con. Mặc dầu làm má khó hơn nữ vương, nữ tướng nhiều.

     Nhất là với con San của chị, mười tám năm rồi mà vẫn dạ sắt lòng đinh. Vừa về tới, dựng cặp chèo ngoaì hàng ba, nó cười, nói cái câu người dưng hay nói với người dưng :

     - Ủa, chế mới về hả ? Hồi sáng này em nấu nước, nghe lửa cười, biết thế nào cũng có khách, hỏng dè là chế. Chị nghe niềm vui như ngọn đèn vửa bị thổi chao ngọn, San ơi, má là khách sao, má là khách à, con ?

     Chị chụp đứng dậy, bảo để chị đi nấu cơm chiều. Chị trầy trật nhen lửa, làm cho cả gian bếp ngoi ngóp khói. Bốn mươi tuổi đầu, chị phải tập làm đứa con hiếu thảo, làm một bà má giỏi giang bằng nồi canh chua bông súng, mẻ cá rô tôm tích kho quẹt này đây.
543

Thứ Bảy, 12 tháng 12, 2009

Bức Họa Tàn Phai



Bức Họa Tàn Phai


     Hôm qua tôi nhìn thấy em đỏ chóe trên tivi tựa vệt phẩm màu đổ vội. Em nhảy loi choi kiểu khỉ trong một trò chơi gì đấy tôi không nhớ rõ tên. Thông cảm cho tôi, dạo này gameshow nở tưng bừng như mai vàng mùa xuân mà tôi không đủ thời gian theo dõi kịp.

      Trông em hớn hở với chiếc áo thun body cộc tay chẳng ăn nhập gì với đôi kính cận gắn trên gương mặt trắng xanh lại lơ đãng một cách khờ khạo, nhưng lượng kiến thức về nghệ thuật phổ thông của em khiến tôi phải giật mình. Khác với trí tưởng tượng của tôi về em trước đây. Cũng không thể trách, cả tháng nay tôi có được gặp em đâu. Em bảo phải huy động toàn bộ thời gian để cật lực chuẩn lại mớ tiếng Anh ba rọi. Em sắp dùng đến nó rồi. Hay chính xác hơn là em buộc phải dùng. Tôi hỏi vấn đề gì nghiêm trọng vậy, hay em định thay đổi việc làm. Em không trả lời cụ thể, bảo phải giữ bí mật. Đằng nào rồi anh cũng biết mà. Nói chung là em đang có một kế hoạch tích cực, anh không nên lo lắng quá - em trấn an tôi.

      Tôi nhớ dạo trước những cuộc hẹn hò hầu hết diễn ra trong chiều nhập nhoạng. Em vận bộ váy vẽ cánh côn trùng trông thật quái đản. Mồm miệng phì phèo các câu chuyện điên rồ, thậm chí những chữ cuối câu lại còn hay nói lắp. Kiểu như em dễ bị bọn đàn ông chụp cho cái mũ vô duyên còn các chị bạn thì bĩu môi rằng gái đoảng. Nhưng riêng tôi thì lại thấy hay hay.

      Lai - gã designer bạn tôi, mắng rằng chữ hay hay của mày đáng vo viên vứt vào bồn cầu rồi giật nước. Với hắn thì yêu là yêu, hoặc yêu vì cái gì, cụ thể hóa mọi thứ từ tiền bạc đến nhan sắc lẫn xác thịt, chứ không có cái kiểu mơ hồ hay hay. Tao chả biết hay là hay chỗ nào. Bọn mày đúng thật là lũ điên.

      Mắng xong hắn te tái đi xem tranh. Hắn tiết lộ anh trai hắn cũng là họa sĩ nhưng phong cách lập thể vị lai của anh ta không chinh phục được hắn. Biết sao được, mỗi người một gu riêng mà. Rồi hắn khịt mũi bảo cái đám tranh tôi vẽ cũng xoàng thôi, chẳng giá trị gì, chẳng hứa hẹn một tương lai gì, giống hệt mớ giẻ rách, đôi lúc trông khó hiểu nhưng quả thật nhìn mãi quen mắt cũng "cảm" được, cũng thấy... hay hay. Thấy chưa, mày nhiễm tư duy từ vựng của tao rồi - tôi cười khanh khách trả đũa. Hắn gãi đầu vì ngượng, bỏ lên gác lục lọi đám mặt nạ tôi nặn trong vô thức nên vẹo vọ xấu mù. Hắn chọn được một cái, rồi xí phần đem về. Hắn thường cướp cạn tác phẩm của tôi một cách trắng trợn như vậy.

      Nhưng tôi cũng thấy vui, giẻ rách mà có người dùng thì giẻ rách có ích quá đi chứ. Dù sao hắn cũng đánh giá tài năng tôi nhỉnh hơn anh trai hắn. Nhưng mỉa mai thay, anh trai hắn lại kiếm tiền giỏi hơn tôi. Cả năm tôi bán lác đác được vài bức. Chủ gallery chỉ trích rằng tranh tôi biểu lộ một tâm thế bi quan, nhìn kỹ có hơi hướng gì đó gần như là ê chề hay mặc cảm nhục dục, hoặc một thứ gì đại loại thế. Tôi mặc ông ta nói, không bình luận hay bào chữa gì. Tôi biết rõ nội tâm tôi thế nào và tôi chỉ diễn tả trung thực cảm xúc. Lúc này cũng vậy, tôi mặc Lai muốn lục lọi gì thì cứ việc, bởi tôi đang bận vừa nhai kẹo cao su vừa dằn vặt về hình ảnh em mà tôi đã nhìn thấy trên tivi. Vì sao hôm qua em lanh lợi và sắc sảo đến bất ngờ?

      Tôi không dám kết tội là trước đây em diễn kịch. Hoặc giả em bối rối. Vì tần số gặp nhau hai lần một tuần là thưa thớt quá chăng? Trước khi gặp em, tôi luôn tự hào về chiều cao đủ chuẩn. Đến khi úp vào nhau tôi chợt nhận ra mình nhầm. Em đã vượt chuẩn gien dân tộc để vươn đến tầm quốc tế. Nhưng sự tự ti của tôi và em thì có vẻ ngang nhau. Bởi tôi ngực gầy má hóp thì em vai xuôi đùi béo. Nhìn chung niềm kiêu ngạo chiều cao càng tô đậm sự bất cân đối của cả hai.

      Gần đây tình trạng sức khỏe tôi có dấu hiệu tuột dốc. Nguyên nhân có thể do tôi biếng ăn lại lười tập thể dục. Một phần vì bầu trời mùa hè như chảo lửa ninh nhừ tôi như người ta nấu cao hổ cốt. Nhưng phần lớn vì nhớ em. Ngày tôi ăn qua quýt dăm lát bánh mì vẫn chịu được nhưng quả thực tôi không chống đỡ nổi cảm giác đói em. Vì thế mà tôi cứ thoi thóp dần.

      *** Châu chấu ma ơi, châu chấu ma à! Tôi thầm gọi em trong những chiều ngoại ô xanh xao nằm bất động trên sofa đỏ đổ nghiêng một góc thềm nhà như vệt máu loang dài. Ngoài kia xa lộ rì rầm bao làn xe chuyển động ngỡ tiếng mưa rơi không ngớt. Cành cây dương xỉ oằn lưng phả ra từng hơi thở ngai ngái bên cổng sắt tróc sơn. Nơi ấy em thường xuất hiện với vạt váy phất phơ tựa bóng ma phiêu dạt. Cổng sắt rên rẩm một hồi dài rồi run rẩy đón em vào. Mỗi lần mở ra khép lại là bao tàn dư oxy hóa cứ rụng lả tả vào lòng tay em trông như người ta đang tẩm bột rán một con châu chấu.

      Châu chấu ma ơi, châu chấu ma à! Tôi khẽ rít lên nửa sung sướng nửa hoảng sợ. Sao lần nào hẹn hò với tôi em cũng hay phất phơ vạt váy vẽ cuồng loạn đàn châu chấu ma? Bộ cánh rằn rực sắc màu ma quái phủ lên sofa đỏ làm chủ nhân xanh xao trên đó ngộp thở. Em nhe răng nở nụ cười man rợ, hỏi tôi - thế anh nghĩ em là châu chấu ma thật à? Nếu vậy lần sau em sẽ mặc váy vẽ chuồn chuồn cho hiền lành, cho giống cái cô ca sĩ gì đó có gương mặt quai quái hay chả chớt hát trên tivi có được không? Còn nếu anh không hài lòng hoặc tỏ thái độ dị ứng nữa thì em sẽ chuyển qua những con bọ hung. Ồ, hay là ruồi nhé?

      Anh xem, những con ruồi xanh gớm ghiếc biết đâu chẳng gợi cho anh vẽ một cái gì đó hứng khởi hơn nhiều những gương mặt tróc lở nhàu nát? Tôi ho sặc sụa vội hất em qua một bên, rên thêm một tràng nữa. Lòng ngờ vực không biết sau mốt thời trang côn trùng và bọ cánh cứng em có chuyển qua loài bò sát? Nếu vậy mỗi lần chúng mình quấn lấy nhau có khác gì đang đóng phim tình người kiếp rắn? Em vả yêu vào mồm tôi, bật cười khanh khách rồi kéo tôi vào nhà. Trong nhà kín đáo muốn diễn gì thì diễn. Bởi nếu còn ở ngoài hiên mà cả hai cứ chơi trò chụp váy phủ mặt nhau thế này, thiên hạ đi ngang tưởng có ma nữ khổng lồ đang ăn thịt hình nhân làm tươm máu cả chiếc sofa thì nguy to.

      Cứ thế mà chiều đi qua, đủng đỉnh trong tiếng chuông nhà thờ phía xa đổ từng giọt ngắn thật tiết kiệm. Trộn lẫn tiếng động cơ chảy không ngớt trên xa lộ. Ngoài kia bụi dương xỉ có lặng thầm thả rơi vài bào tử nhỏ bé đáng thương? Trong này t
ôi với em chia nhau chuẩn bị dạ tiệc.

      Dạ tiệc kỳ thực chẳng có gì xa hoa. Em vừa trút một bãi máu bầm từ hộp nhựa trắng ra chiếc đĩa sứ cũng trắng và hít hà dọn rau răm cùng chanh ớt ra mâm. Em ghiền món tiết canh. Nhìn cái miệng xinh xinh của em khoái trá hút dần đĩa tiết canh trông khiếp đảm như ma cà rồng tái sinh. Vừa ăn em vừa luôn miệng ngợi khen cái siêu thị nằm lửng lơ trên đường về nhà tôi. Nó bát nháo khủng khiếp và cách trưng bày hàng hóa thì thiếu logic. Nhưng ưu điểm là bán fast-food có sáng tạo. Ối chà chà, tôi ngạc nhiên vì khả năng phát hiện của em. Dân Mỹ đến đây hẳn sẽ nghẹn họng khi biết tiết canh cũng được em xếp vào nhóm fast-food và lại còn bán đường hoàng trong siêu thị. Từ hiện tượng đột phá này hẳn các nhà xã hội học thôi không còn lớn tiếng chỉ trích là dân kinh doanh xứ mình thiếu tinh thần sáng tạo.

      Tôi lập cập tuột từ căn gác xuống. Thả vào đầu đọc chiếc DVD mới. Em trợn mắt ồ lên thích thú. Phim kinh dị hả anh? Sao lúc nào anh cũng sưu tập nhiều phim kinh dị thế hả? Lần này là kinh dị tâm lý, kinh dị hình sự hay kinh dị siêu nhiên? Mà này, sao anh không thử xem kinh dị Hàn Quốc đi nào. Hôm nọ đứa đồng nghiệp cho em mượn một phim, tựa gì quên rồi, nhưng có cái cô Kim... ơ... Kim Nam Châm gì đó, tóc dài mượt ơi là mượt, cứ như đang quảng cáo dầu gội, mà nội dung hay lắm, xem đến hết phim em mới biết cô ta là ma. Nhìn cảnh cô ta nhe răng nanh và các búi cơ thối rữa dần mà nghẹt thở. Khiến anh chàng cảnh sát người yêu cô ta vãi hết ra quần, chân nhũn như bột nhão, tay cầm khẩu súng mà cứ run lên không thể nào khạc ra đạn. Đấy anh xem có khiếp không chứ? Dứt màn kể lể là em vứt đĩa tiết canh xuống sàn đánh roẹt, vài hạt đậu phộng thừa vương vãi nền gạch khô khốc.

      Em túm nhàu vạt váy, co rúm người lại, ép sát vào người tôi, mắt mở thao láo nhìn lên cảnh tượng bí ẩn trên khuôn hình tối thẫm. Không gian lặng phắt tô đậm tiếng cánh cửa mở ra đột ngột. Hiệu ứng âm thanh dồn nén gây nỗi ám ảnh sợ hãi siết chúng tôi thành một.

      Sau đó chúng tôi chìm vào nhau. Trời ngoại ô về khuya gió rít qua hiên nhà nghe hoang lạnh và u ẩn. Bộ cánh châu chấu ma em vứt trễ nải trên thành giường, trong bóng tối đèn ngủ ánh lên từng vệt màu xanh ma quái. Tôi thở dài, khẽ vuốt dọc lưng em. Em lột xác cho tôi để tận hưởng niềm vui ít ỏi mà vẫn không thể che giấu nét hoang hoải u buồn. Đôi lúc tôi tự hỏi qua những giấc ngủ thế này, rồi sẽ đọng lại trong nhau chút gì không? Hay chỉ vài giấc mơ chắp vá nhuốm mùi tiết canh và phảng phất phong cách phim kinh dị?

      ***

      Kết thúc đợt chuẩn hóa mớ tiếng Anh ba rọi, em rẽ hướng cuộc đời. Chúng tôi đành tạm chia tay.

      Em sang Thái làm việc, song song theo đuổi chương trình học về hiệu ứng kỹ xảo dành cho công nghệ phim quảng cáo. Kiểu vừa học vừa hành. Các email mô tả cuộc sống mới của em nơi đất khách không kiềm chế tâm trạng phấn khích. Trong một môi trường dồn dập những ấn tượng thị giác và bao cuộc giao thoa cởi mở đến mức rối loạn của các dòng chảy văn hóa dị biệt, tôi sợ em choáng ngã. Nhưng em trấn an tôi, rằng các loại hình kinh doanh những kích thích dục vọng chỉ mê đắm được bọn đàn ông, chứ em thì miễn nhiễm. Anh cũng đừng bận rộn ghen tuông với gã sếp bé ManYi làm gì. Em tuyệt đối an toàn bên gã. Vừa qua xứ này gã đã sưu tập cho mình một boyfriend mới rồi. Anh hiểu vấn đề em nói chứ? Tôi gật đầu chiếu lệ, an tâm. Qua màn hình webcam gương mặt tôi thuỗn ra như chiếc lưỡi cày.

      Tôi hỏi em dạo này thay đổi phong cách ăn mặc rồi sao. Bất ngờ quá! Em cười tít, thì cũng phải hòa nhập môi trường thôi. Chứ thực ra để giã biệt những bộ cánh côn trùng em có cảm giác đau đớn như rắn bị lột xác. Nhưng như thế này thì trông em có khá hơn ấy chứ? Vừa nói em vừa đứng lên, lùi ra xa, xoay chầm chậm một vòng cho tôi thấy hình ảnh toàn thân. Mode! Vậy mà tôi cứ băn khoăn không biết cho em mấy điểm. Nói chung là em đã hiện đại rồi. Nhưng sự đổi mới này trông quần chúng và hơi mất cá tính. Tôi quen hình ảnh côn trùng của em hơn. Tuy điên điên nhưng... hay hay. Nói chung không cắt nghĩa nổi. Rồi em hỏi tôi về xóm nhỏ ngoại ô có gì mới không. Tôi bảo mình cũng yên ổn bên những người hàng xóm. Họ không quấy rầy gì. Trừ Lai - gã bạn designer thực dụng của tôi. Em biết loáng thoáng về Lai rồi mà. Cái gã hay cướp cạn những tác phẩm giẻ rách của anh đấy! Em ậm ừ. Nhưng mà em chẳng thể an tâm. Anh nên dè chừng. Em linh cảm anh ta ít độ tin cậy. Nói chung là linh cảm đàn bà, không giải thích được. Vì thế phải cảnh giác.

      Tôi nhận ra đề tài đang bị chệch hướng. Tôi đề nghị thôi chúng mình nói chuyện khác đi. Rằng anh nhớ em lắm. Nhớ gần như là đói. Anh đói em! Em nhanh chóng buông thả cảm xúc, hưởng ứng bằng đôi mắt hoe đỏ. Em cũng nhớ anh mà. Nhưng anh phải hiểu cho em. Bên này vừa làm vừa học khá vất vả. Theo đuổi công nghệ cao, tốn kém lắm! Vả lại, gã sếp bé ManYi ngoài giờ quấn quýt với boyfriend thì gã quản em khá chặt. Nhưng có thế thì em mới mau giỏi nghề. Khi nào ngơi việc và kiếm đủ tiền vé máy bay, em sẽ vèo một chuyến về thẳng ngoại ô thăm anh. Em thèm món tiết canh ghê gớm. Ở đây không có bán anh à. Nói xong em khóc. Tình cảnh thật thảm thương.

      Khi cuộc than vãn chấm dứt, màn hình webcam tắt thì chiều cũng sầm sập trôi qua. Bóng tối khoái trá bò dần vào con đường ngoại ô vắng lặng. Tôi trông ra cổng sắt, thấy cụm dương xỉ đang già đi, những tàu lá còng xuống, uể oải. Hình như lâu lắm rồi tôi không tưới giọt nước nào cho nó. Khéo chừng nó đang chết đi. Mà sao đám bào tử bé nhỏ rụng xuống không để lại vết tích sinh sôi gì?

      Nằm dài trên sofa đỏ, tôi nghĩ về tám năm tuổi trẻ đã trôi qua. Chật vật và dùng dằng phương hướng. Một quãng đời hơi bất động, gần như vô dụng. May quá, tôi còn một cuộc yêu đương. Nhưng kết quả của nó là gì? Khi mà em không xác định được khi nào sẽ trở về cùng tôi. Làm sao tôi có thể loại bỏ những hạt nghi ngại vẩn vơ đang manh nha nảy mầm trong lòng?

      ***

      Vắng em, tôi đành chấp nhận chơi thân với Lai. Dù trước đây tôi không ưa gì hắn. Mà hắn và em cũng khắc khẩu nhau. Em luôn cảnh giác với hắn còn hắn nhận xét em là phường mọi rợ. Cũng bởi hắn có đôi mắt cú vọ cứ nhìn xoi xói ruột gan người đối diện rồi buông ra những nhận xét lạnh lùng. Nó khiến người ta tổn thương. Nhưng vì lẽ gì tôi qua lại với Lai? Đơn giản bởi ở khu ngoại ô heo hút và rác rưởi này, tôi chẳng tìm ra ai phù hợp để chơi. Lai là kẻ duy nhất có chút hiểu biết về nghệ thuật - kết quả của năm năm theo học ngành thiết kế. Chuyên gia sáng tạo ra những poster quảng cáo ăn khách, nhưng ngoại hình kém hấp dẫn cộng cách ăn mặc luộm thuộm phản mode đã không giúp hắn kiếm được một chỗ trong thế giới thiết kế thượng lưu. Có lẽ vì lý do này mà Lai bộc lộ tư tưởng sùng bái đồng tiền một cách không giấu giếm. Những tờ bạc có màu xanh tái luôn hấp dẫn Lai đến mức, khi nhìn vào các bức họa của tôi, hắn ta luôn nghiêng về các gam lạnh u buồn. "Nhìn xem, chúng đẹp làm sao. Đấy, đấy, tôi thích nhát cọ ấy. Chúng xanh như một tờ đô la". Ôi trời, lối so sánh rẻ tiền khiến tôi phát cáu. Tôi đẩy hắn ra cửa, hét lên trả đũa: "Và cũng xanh như nước da xanh xao của cậu. Cút về với những poster thương mại rỗng tuếch đi!". Hắn phá vỡ mạch cảm xúc trong tôi. Chúng tôi thường xuyên xung đột kiểu như vậy. Chúng tôi đều là những kẻ ích kỷ và bảo thủ.

      Tình hình suy nhược kéo dài và có dấu hiệu ngày càng trở nên trầm trọng đẩy tôi vào trạng thái cáu kỉnh, rồi sau đó lẩn tránh hầu hết các cuộc giao tiếp. Nhiều tháng nay các cuộc online giữa tôi và em cứ thưa thớt dần. Câu chuyện kém hưng phấn từ phía em. Mối quan hệ đang tiến vào vùng trung tính. Lai lại đột ngột chuyển nhà. Hắn ta nói muốn dọn về nội thành ở cho tiện việc đi làm. Người anh lập thể vị lai của hắn giúp một nửa tiền mua nhà. Mỗi quãng đời đều cần một thay đổi - hắn kết luận bằng một giọng nghiêm túc. Nhưng khiến tôi đau đớn. Suốt tám năm tuổi trẻ mất đi, tôi đã thay đổi cái gì?

      Chúng tôi ra ngồi trên sofa đỏ. Không nói được chuyện gì ra hồn. Sự ngắt câu lộn xộn thiếu ý thức khiến Lai trở nên khó hiểu. Thà rằng hắn ta cứ tiếp tục phong cách láu cá như mọi khi thì tôi sẽ thấy thoải mái hơn. Lai xoay trở thế ngồi chậm chạp, hắt hơi liên tục vì mùi cánh gián xộc lên trong bầu không khí ẩm ướt. Cơn mưa đầu hè trút xuống vội vã đưa tiễn những đám lá úa lìa cành trong khu vườn nhỏ đùn lên các tổ kiến đen dị thường. Đám nấm tai mèo ve vẩy nơi cội dong riềng rung lên từng chập theo tiếng sấm rền trong cơn mưa. Lai lui vào nhà, nhìn luyến tiếc các bức vẽ dang dở. Đó là lần hiếm hoi hắn không chiếm đoạt của tôi thứ gì. Khi cái bóng xấu xí ấy khuất sau cánh cổng sắt mục nát, tôi ngồi bó gối trong bóng tối, dòng nước ấm lặng lẽ bò trên má. Có bức thiết lắm không sự thay đổi cho mỗi quãng đời? Vì sao tôi điều khiển cuộc sống mình một cách lung tung thế này? Vì sao tuổi trẻ qua đi thì tôi cũng mất dần nhiều thứ đến vậy?

      Càng nỗ lực níu kéo nhịp sinh hoạt trước đây, tôi càng nhận ra mình không thể. Hình như tôi mất hẳn em rồi. Đường bay Bangkok - Sài Gòn có là bao? Vì sao em im lặng? Vì sao tôi không dám thử tìm em một chuyến cho rõ trắng đen? Nhưng tôi sợ đối diện một sự thật. Tôi sợ gã sếp bé ManYi biết đâu không phải là tên đồng tính. Biết đâu đó là một kế hoạch đã được sắp xếp tinh khôn? Hay là em đã choáng ngã vào một trào lưu sống nào đó? Biết đâu biết đâu?...

      Trong những chiều ngoại ô xanh xao nằm bất động trên sofa đỏ đổ nghiêng một góc thềm nhà như vệt máu loang dài, tôi dằn vặt mình bằng những câu hỏi biết đâu biết đâu...?

      Đường về ngoại ô xa tít, hết nắng và bụi bao vây lại đến mưa với bùn phục kích. Nhìn từ trên cao, xe buýt trôi lờ đờ giống hệt con bọ cánh cứng diêm dúa vừa trở thành chiến lợi phẩm cho đàn kiến đông đúc lôi đi. Một tháng đôi lần tôi chui vào bụng con bọ cánh cứng ấy đi về trung tâm mua sắm các thứ cần thiết, chủ yếu là toan và màu vẽ. Phần lớn thời gian chui rúc trong nhà, đối diện tình trạng suy sụp và căn bệnh trầm cảm. Mùi sơn dầu trộn lẫn trong không gian nồng đượm hương chuối tỏa ra từ xưởng bánh kẹo trong vùng. Các bữa ăn tự nấu thường trực món rau diếp trộn dầu giấm theo sở thích hơn là lời khuyên của bác sĩ. Hiếm hoi những cuộc thăm viếng của Lai. Trước đây em từng nếm thử món này và không thể nuốt trôi, nếu không muốn nói là buồn nôn. Còn Lai thì khịt mũi bảo rằng hắn vốn dị ứng với mùi chua nồng của giấm. Ăn mãi một món, ngửi mãi một mùi, vậy mà cậu chịu được sao? Tôi buồn bã gật đầu, quen rồi mà. Có những thứ mãi mãi thuộc về mình, muốn thay đổi mà không thể được. Đột nhiên ngân dài trong tôi câu nói của Lai - mỗi quãng đời đều cần một sự thay đổi. Nhưng sở thích vị giác và yêu đương có cần thiết đổi thay không?

      Lai đặt tay lên vai tôi, đôi mắt cú vọ nhìn sâu thẳm, giọng chân thành - cậu đi tìm cô ấy một lần đi. Để làm gì? - tôi chua xót hỏi. Để kết thúc. Sau kết thúc sẽ là cuộc thay đổi. Biết rõ trắng đen để thay đổi. Tôi nói tôi sợ. Tôi đoan chắc mọi thứ nhưng vẫn sợ đối diện em. Nhiều tháng nay em không hề liên lạc. Điện thoại biến mất. Hộp thư trống rỗng. Các e-mail vô vọng. Như thế không đáng cho cậu thay đổi ư? - Lai lại cất giọng, lần này nghe rõ ngữ điệu thúc giục. Hoặc cậu trở lại nghề thiết kế. Hai năm chểnh mảng như thế là ngu ngốc lắm rồi. Nếu vượt ngưỡng thời gian này, cậu sẽ phải bỏ cuộc. Cậu đang đánh rơi phương hướng sống. Hai năm, cậu đã loay hoay trong sự mục ruỗng! Những bức tranh rác rưởi, nhiều năm dài tốn sức cho cuộc yêu đương kỳ quái không hứa hẹn gì, tài chính teo quắt, thái độ sống không dấn thân... Tất cả đã tàn phá cuộc đời cậu. Cậu hiểu chứ?

      Tôi ngã xuống sofa, run rẩy. Tôi đã không nổi cáu trước Lai. Bởi hắn nói đúng quá. Tôi kiệt sức rồi. Tôi cố thều thào rằng tôi cảm ơn cậu, nhưng tôi cần có thời gian để làm lại. Lai hét lên - thế cậu còn chờ đến bao giờ? Nếu cậu không ra sức tự cứu, sẽ chẳng có ai vực nổi cậu dậy. Vứt hết, đốt hết mọi thứ đi, từ bỏ căn nhà u ám này, con đường ngoại ô chết tiệt này. Càng nhanh càng tốt. Có thế mới xóa hết mọi dấu vết. Rồi làm lại! Ừ, có thể cậu không cần đến Bangkok làm gì. Đôi lúc một chút mù quáng, một chút ảo vọng cũng khiến người ta sống có niềm tin hơn.

      ***

      Rốt cuộc tôi đã thu xếp về nội thành nhưng không treo biển bán nhà. Tôi quyết định tá túc ở chỗ Lai. Căn hộ chung cư thoáng rộng còn trống một phòng vì cậu ta đang trong giai đoạn hò hẹn với một cô copy-writer, vóc dáng trung bình. Tôi nghĩ khi nào Lai cưới, tôi sẽ chính thức dọn ra và tính toán lại căn nhà ngoại ô cho hợp lý. Tôi chuẩn bị dự tuyển vào công ty thiết kế mới, chật vật hâm nóng lại các kỹ năng làm việc mà trước đây tôi đã buông xuôi.

      Nhưng trước khi sẵn sàng gia nhập lại đời sống công nghiệp, tôi đã làm một việc điên rồ mà rất nhiều năm sau này không thể nào lý giải được.

      Liên tục những buổi chiều cuối hè nóng ẩm, đu đưa trên chiếc thang dài chênh vênh, tôi huy động một lượng lớn màu để dồn sức cho bức vẽ khổng lồ nhất trong đời. Toàn bộ mảng tường dài của căn nhà trông ra khu vườn nhỏ dần xuất hiện chi chít những cánh châu chấu ma. Chúng bay rối loạn trong một khối thống nhất trên cái nền trời lục thẫm và có xu hướng đổ nhào xuống một điểm góc trái. Nơi cái góc nghiệt ngã ấy, tôi sắp đặt lại chiếc sofa đỏ. Chỗ ngồi bỏ trống. Tôi vẽ lên đó những đường nét mơ hồ diễn tả dáng người nửa nằm nửa ngồi bất động, còn cái đầu thì mất hút vào điểm rơi của đàn châu chấu ma. Cảm giác chiếc đầu đã bị chúng ăn mất và máu thì loang ướt đẫm ghế. Nhìn từ xa, toàn bộ căn nhà biến thành vật thể kỳ dị, màu sắc gây kích động thị giác và các hình khối chuyển động mang tính tàn phá.

      Những người hàng xóm giương mắt tò mò, họ tưởng tôi đang lên cơn điên. Khi tôi gõ cửa một hàng xóm để nhờ họ thỉnh thoảng để mắt tới căn nhà giúp tôi, đề phòng đám trẻ con nghịch ngợm có thể trèo cổng vào vườn vặt trụi cây lá, thậm chí đốt cả chiếc sofa. Kỳ thực tài sản trong nhà chẳng có gì ngoài một đống tranh ảnh và mặt nạ đã được gói kỹ. Tôi không thể khuân hết đám thổ tả ấy về căn hộ mới tinh sạch sẽ của Lai. Tôi phải bỏ lại một đời sống cũ. Ông già hàng xóm nổi tiếng tốt bụng đã chằm chặp nhìn tôi bằng ánh mắt nghi ngại và thiếu thiện cảm. Rồi dường như không thể chịu đựng nổi, ông ta hỏi thẳng rằng cậu có phải là bệnh nhân AIDS không? Tôi chua chát cười không biết phải giải thích sao cho ông cụ hiểu. Bào chữa thế nào khi tôi cứ ngày một xanh xao gầy yếu dần mà cách sống lại ẩn dật bí hiểm. Cuối cùng tôi đành phải rút lui kèm tiếng cảm ơn dù biết chắc cuộc nhờ vả bất thành còn bị tặng cho một mẻ lưới kỳ thị. Buổi chiều hôm ấy trôi qua đau đớn như thể tôi đang cầm dao cắt lìa cổ mình.

      Châu chấu ma ơi, châu chấu ma à! Tôi không chạy trốn được nỗi nhớ em. Dằn vặt và căm hận. Về đêm, cơn ác mộng ập đến bất ngờ. Tôi nhìn thấy khu vườn nhỏ rên rỉ trong mớ âm thanh rào rào cuồng loạn. Từng bầy châu chấu ma đột ngột bay ra từ bức tường lớn rồi biến đi nhanh chóng. Sau cuộc tấn công bạo liệt, khu vườn trở nên suy kiệt hoang tàn. Lấp ló nơi bụi dương xỉ có vài con châu chấu với đôi mắt mở to thao láo cùng bộ cánh rằn rực sắc màu ma quái đang giương ra, vẻ sẵn sàng tấn công. Tôi mở cổng sắt bỏ chạy. Bỗng linh cảm bất thường khiến tôi ngoái đầu nhìn lại. Chợt nhận ra nơi bức tường vẽ đàn châu chấu ma, thấp thoáng chân dung em hiện ra từ các mảng màu cuồng nộ.

      Sớm mai thức dậy, tôi thở phào nhẹ nhõm khi nhìn bức vẽ khổng lồ không biến dạng chút gì. Gã tài xế giúp tôi chất mớ đồ đạc cá nhân lên taxi, ánh mắt phơi bày sự hoảng loạn khi nhìn thấy bức tranh tường có phong cách đẫm máu. Tôi ngồi ngửa cổ nơi băng ghế sau, cố xua đi cảm giác thấm mệt vì cơn ác mộng đeo đuổi. Ngoại ô bị biến dạng khi nhìn qua cửa kính đục mờ trong trạng thái mỏi mệt, phút chốc lùi dần trong tiếng mưa động cơ rơi hào phóng trên xa lộ...

      ***

      Xông xênh áo xống, cuống quýt phóng xe đi làm được vài tháng thì tôi tái phát cơn điên. Nguyên do cũng tại cô nàng copy-writer người yêu của Lai. Công lao tôi gầy dựng bao nhiêu thói quen, bao nhiêu nhiệt tình hâm nóng lại cuộc đời phút chốc đã bị cô nàng phá hỏng. Giá như trong bữa ăn tối tay ba cô ta không hỏi tôi về chuyện tranh pháo và nguyên nhân khiến tôi từ bỏ chúng. Lai ý nhị đá chân cậm cạch dưới gầm bàn nhắc người yêu có vóc dáng trung bình nhưng giọng điệu thì tăng level cực đại. Quả không hổ danh với nghề cô chọn, mọi vấn đề khi trôi qua cô được giải phẫu đến từng tiểu tiết. Sau những tiếp cận, đánh giá, đề ra hướng giải quyết, cộng một chuỗi dài những ý tưởng sặc mùi quảng cáo..., cô kết luận là tôi đã tự phá hỏng cuộc đời một lần nữa. Lai không chịu được, xô ghế đứng dậy, căm tức nhìn người yêu. Cặp tình nhân này quả là mâu thuẫn. Nếu Lai khuyên tôi đốt hết vứt hết thì ngược lại cô nàng copy-writer lại muốn tôi giữ lại, duy trì và tái đầu tư. Giọng level cực đại của cô rót vào tai tôi sôi sục như người ta đổ khuôn vàng, chúng thổi vào lòng tôi nóng bỏng như người ta thổi thủy tinh. Chẳng mấy chốc mà căng phồng cảm hứng. Cuộc trò chuyện khiến tôi tự cấu vào vết thương lần nữa để máu đam mê chảy rần rật trong người.

      Bằng đôi mắt sắc sảo bén nhạy cộng khả năng giao tiếp rộng, người yêu Lai giới thiệu tôi với một chủ gallery mới. Đống tranh thổ tả nhanh chóng rời khỏi ngoại ô lần lượt ngự vào khung trang trọng. Từ đây, tôi được thông báo một cách hoan hỉ rằng chúng đã được tiêu thụ từ tốn nhưng trôi chảy. Một nhà sưu tập nước ngoài đã để mắt đến chúng và thấy hợp nhãn. Họ khuyên tôi nên khơi thêm ngọn bấc cho sự nghiệp cháy bùng. Tôi nhớ khoảng thời gian vật lộn trong cuộc tình điên rồ với em trước đây, thời tôi nhẫn nhục tiếp nhận những lời chỉ trích của gallery cũ, rằng tranh tôi biểu lộ một tâm thế bi quan, nhìn kỹ có hơi hướng gì đó gần như là ê chề hay mặc cảm nhục dục, hoặc một thứ gì đại loại thế.

      Ở đây người ta đánh giá tôi khác. Lai thấy công cuộc cách mạng của người yêu đã có tác động tích cực đến tên bạn nhàu nát chán đời là tôi, đành chép miệng dễ dãi cho qua, thôi thì đằng nào cũng tốt, cái gì bán được ra tiền cũng đều có ích cả.

      Nhưng ở đời đâu phải cái gì có ích cũng khiến người ta vui. Thậm chí khi quá vui, mọi suy tính đều biến thành dễ dãi và ngu ngốc. Sau một thời gian ngắn nhấm nháp niềm hân hoan trẻ con vì đã tìm ra lối thoát, thói tò mò trong tôi trỗi dậy. Khi hỏi chủ gallery người sưu tập quen thuộc vẫn hay mua tranh tôi, thì biết được rằng đấy là một vị khách quốc tịch Sing, ông ta chỉ đến có một lần, những lần sau thẩm định và chọn tranh qua net, phần vận chuyển nhanh chóng, chuyên nghiệp. Có vài điều bí ẩn, số tranh được chuyển đến nhà riêng của ông ấy chứ không trực tiếp mang ra nước ngoài. Chắc hẳn ông ấy có phương cách tiêu thụ riêng. Tôi hỏi vị khách là ai và có thể biết được địa chỉ cụ thể không.

      Người chủ gallery nhiệt tình lục lọi trong cuốn danh bạ chìa ra một tấm card nhỏ: ManYi - giám đốc công ty truyền thông đa phương tiện... ManYi à? Tôi lục lọi trí nhớ suy kiệt. ManYi. Thôi đúng rồi, cái tên này gắn liền với em. Trời ơi tôi đúng là tên đần độn nhất thế gian này. ManYi - em. Em - ManYi! Có khi nào họ lấy nhau không? Lẽ nào em lừa phỉnh tôi? Biết đâu hắn đưa em qua Thái và dối trá với tôi là đi học. Rồi bặt tin. Hừ, vậy mà em còn dám trấn an tôi là hắn ta đồng tính. Một kịch bản hoàn hảo. Em - ả đàn bà xảo trá gian ác. Em - con châu chấu ma khổng lồ đã ăn mất chiếc đầu của tôi thật rồi...

      Phải khó khăn lắm tôi mới tiếp cận được ManYi. Các nhân viên giống những con chó trung thành bảo vệ ông ta khá kỹ. Trong văn phòng lạnh mà tôi như lên cơn sốt, tôi giới thiệu mình là tác giả của những bức tranh mà quý ngài đã mua, khóe miệng run lật bật. Ông ta nhướng tia nhìn lơ đãng, tiếp tôi nhạt nhẽo. Ông lãnh đạm thú nhận chẳng hào hứng gì. Nói thẳng ra tôi không cần biết cậu là ai, cậu vẽ cái quái quỷ gì, tôi không thích chơi tranh nhưng vợ tôi thì ngược lại. Tôi mua vì chiều vợ, vậy thôi. Cám ơn cậu đã làm cho vợ tôi vui. Bây giờ thì có thể kết thúc cuộc gặp rồi. Ông ta chìa tay về phía cửa như ngầm xua đuổi. Tôi cố vớt vát hỏi tên vợ ông ta, hy vọng mong manh rằng có thể ông ta sẽ phát ra một từ lạ. Nhưng không, ông ta đã nói tên em. Tôi lảo đảo lùi ra cửa, cố gắng giữ bình tĩnh.

      Trong giây phút tôi không biết phải hành động ra sao. Giống như bị hút vào một lỗ đen nào đó. Rồi không kiềm chế được nữa, tôi hét ầm lên mày là thằng đểu, chúng mày là một lũ đểu. Hắn ngơ ngác nhìn tôi. Hắn không hiểu tôi nói gì. Nhưng hắn nhanh nhạy phản ứng. Chúng tôi đua cùng nhau trong tích tắc. Tôi nhào tới định túm cổ hắn, vươn cánh tay lẻo khoẻo qua mặt bàn đấm túi bụi nhưng hắn chuồi người về phía sau khiến tôi ngã sấp trên mặt bàn lát kính. Tôi mắt ngầu đỏ, nhòe nhoẹt máu mũi trộn máu môi, gào tướng hỏi em đâu, ả đàn bà xảo trá, con châu chấu ma độc ác của tôi đâu? ManYi chẳng biết có kịp đoán ra vấn đề gì không nhưng đã ầm ĩ thét lên kêu bảo vệ. Họ túm cổ tôi vứt ra ngoài, dọn sạch mớ rắc rối nhanh chóng.

      Tôi đón taxi lao ngay về ngoại ô. Gọi điện thoại cuống quýt kể lể với Lai khiến tên bạn hốt hoảng không kém. Hắn lắp bắp hỏi đi hỏi lại là tôi vẫn an toàn trên taxi đấy chứ, không phải đang tự lái xe phóng điên cuồng trên xa lộ đấy chứ. Tôi nằm bẹp dí trên băng ghế, mắt không rỉ giọt nào nhưng chắc hẳn đang vằn tia đỏ.

      Lần dò vào ngõ nhà. Buổi chiều nhập nhoạng dâng lên trong đôi mắt tối thẫm và bờ môi sưng rát. Bao ký ức rối loạn nhảy trong đầu. Trận gió cuối ngày cuốn đám bụi tung mù lên không trung. Chuông nhà thờ phía xa đổ từng giọt ngắn tiết kiệm. Bóng mây hình nấm bay lơ lửng qua bầu trời rực đỏ. Cổng sắt tróc sơn đây, nhà của tôi đây. Mối tình quái đản của tôi kia, diễn ra nhàu nhĩ đều đặn hai lần một tuần trên sofa đỏ đổ nghiêng một góc thềm nhà như vệt máu loang dài.

      Kỳ lạ chưa, trên chiếc sofa đỏ, một bóng người đang ngồi gục, dáng điệu thân thuộc. Em! Tôi đứng trời trồng giữa khoảng sân hoang tàn, nhói đau. Cô ngẩng mặt lên, nhìn tôi. Trong một tích tắc, tôi muốn nhào đến siết lấy cổ cô ta. Nhưng mọi trí lực bất chợt nhũn ra, thối rữa. Bức họa châu chấu trên tường nham nhở những vết màu nhòa nhạt.

      Em vẫn ngồi đằng kia, tôi đứng đằng này, cả hai bất động, miệng lặng câm, mắt nhìn thản nhiên, cơ mặt lạnh lẽo. Châu chấu ma ơi, châu chấu ma à! Nói cái gì đi chứ? Vì sao chúng ta như thế này? Vì sao?

      Cô kết hôn với ManYi? Ừ. Tại sao cô bảo tôi hắn là tên đồng tính? Chính xác là vậy. Nói láo, tôi sẽ giết cô. Muốn thì cứ việc, nhưng em không láo. Đấy là sự thực, em thề. Vậy cô lấy hắn vì cái gì? Tiền! Tôi không tin, đơn giản thế thôi sao? Tiền, em nhắc lại. Em cần tiền, lúc đó em cần ghê gớm. Ông ấy cũng cần em ghê gớm. Bọn lừa đảo trơ trẽn - tôi rít lên. Chính xác thế. Nhưng em không lừa anh. Đúng ra là em muốn giải thoát cho anh. Khốn nạn, tôi không hiểu. Thật mà, em muốn giải thoát cho anh, và cho cả em nữa. Có thể em trơ trẽn, nhưng em không lừa đảo. Câm mồm, tôi sẽ giết cô tức thì. Em thách đấy, không giết được đâu, anh còn chưa biết hết mọi chuyện mà. Vậy cứ nói đi, bịa cho khéo vào. Không, em không bịa. Mà anh muốn nghĩ gì thì nghĩ. Bây giờ em mệt mỏi lắm, em đã tính toán sai lầm. Tất cả đều sai lầm. Nhưng em không hối tiếc, em làm điều đó vì anh. Máu tôi bốc phừng phừng tận đỉnh đầu, những ngón tay cong quắp, quai hàm cứng đờ. Tôi sắp giết cô ta. Nhưng câu chuyện chưa kết thúc. Kết thúc làm sao được, anh biết rồi, chính ngay lúc này cũng chỉ mới bắt đầu mà.

      Em nói tới đâu rồi. Ừ, em lấy hắn. Nhưng trước khi lấy hắn, hồi yêu anh thì em cũng đã là tình nhân của hắn rồi. Tình nhân hờ, anh hiểu chứ? Sau này em có một hợp đồng hôn nhân khéo léo. Hắn cần em như cần bức bình phong che mắt thế gian. Hắn có vợ, hắn trở thành đàn ông đích thực. Nào ai nghi ngờ giới tính của hắn. Dĩ nhiên hắn không động đến em. Cả hai chơi cái trò bịt mắt người đời hoàn hảo như đang ứng dụng những tuyệt chiêu kỹ xảo trong các đoạn phim quảng cáo. Dĩ nhiên, em có một khoản tiền hằng tháng. Một năm gom lại cũng nhiều. Nhưng trước đó em phải dùng để nộp cho bệnh viện. Người ta giúp em loại bỏ khối u. Người ta cũng cắt đi của em buồng trứng.

      Kìa anh, đừng nhìn em kinh ngạc thế. Anh không thấy bao năm ròng mình gần nhau mà em chưa một lần dính bầu sao? Ừ, cứ cho là em lừa dối anh. Nhưng em không còn cách nào khác. Em yêu anh, em muốn sống với anh, em muốn làm vợ anh, nhưng em không sinh con cho anh được. Em chọn giải pháp trốn đi. Chỉ có thể khi anh biết em là kẻ phản bội, lòng căm thù mới khiến anh rời xa em được. Em bấu víu vào ManYi. ManYi giúp em viết kịch bản dối trá hoàn hảo, củng cố lòng căm thù em trong anh. Nhưng em sống bên đó không yên ổn. Dù em có số tiền kha khá hằng tháng. Em thấy đời mình vô nghĩa quá. Em trở về đây! Hắn cấm em về. Nhưng em vẫn quyết. Em lén lút như tên trộm. Tháng nào em cũng lén về ngồi trên sofa đỏ. Hàng xóm tưởng em là hồn ma. Chờ anh ư? Cũng không hẳn. Em làm vậy vì em không biết phải làm gì. Em ngồi chỉ để nhìn ngắm bức tranh tường. Nó ám ảnh em. Nó đẹp một cách tuyệt vọng. Mà anh cũng điên thật đấy. Tình yêu đã làm chúng ta hóa điên rồi. Mỗi tháng một lần em hiện về đây, sao anh lại bỏ nhà đi lâu vậy chứ? Em chỉ muốn làm cái gì đó giúp anh thôi. Nhưng em ngu ngốc, em không biết cách. Em đã chủ động liên lạc với Lai, rồi nhờ cô người yêu của Lai tạo ra một yếu tố ngẫu nhiên, đánh lạc hướng anh. Em chỉ nghĩ việc bí mật mua tranh anh, là giúp anh củng cố lòng tin vào tài năng mình. Em muốn cuộc đời anh tươi sáng hơn, còn em, em đã bế tắc rồi...

      Tự bao giờ, tôi đã ngồi xuống sofa cùng em. Em ngã xuống, cơ thể kiệt quệ. Mắt ráo hoảnh, em gối đầu lên đùi tôi, hai chân như bơi vào khoảng không. Em không mặc váy vẽ cánh côn trùng, em đang vận bộ áo quần mode hiện đại nhưng thiếu cá tính. Bóng tối khuynh đảo khu vườn. Một cánh dơi đêm bay loạng choạng trên đầu như mất phương hướng. Tôi vuốt mi em cho khép lại. Tôi không biết phải làm gì. Tôi nhìn ra cổng sắt, dò tìm bụi dương xỉ ngày xưa. Nó biến đi đâu rồi. Trời ơi, nó đã tàn lụi vào đất khi nào mà tôi không biết. Sao đám bào tử nhỏ bé đáng thương không để lại vết tích sinh sôi gì? Bao nhiêu tháng ngày đã trôi qua ở đây, bao nhiêu thay đổi đã diễn ra ở khu vườn này? Em vẫn gối đầu lên đùi tôi, nhẹ bỗng, tóc tai đổ thành dòng xuống đất. Chiếc sofa hình như đang mục dần, thành ghế rách bươm, bám bụi và có cả một đám rêu mốc li ti ẩn hiện. Trong đêm tối, phía sau lưng tôi, trên đầu tôi, bức họa châu chấu có còn rõ chi tiết nào không, hay cũng đã tàn phai theo mưa nắng?

      Chúng tôi chìm vào nhau. Nhịp thở thoi thóp. Em níu bàn tay tôi, bàn tay nổi gân xanh, gầy guộc, rồi kéo sát vào cổ em, rồi thều thào, em đã nói hết rồi, bây giờ em van anh, hãy giết em đi, hãy siết cổ em đi. Em muốn biến thành con châu chấu ma vỗ cánh bay lên. Nào, nhanh lên đi anh, kẻo sớm mai tỉnh giấc, đời ta thành vườn hoang !



Tác Giả: Nguyễn Ngọc Tư

86

Thứ Năm, 10 tháng 12, 2009

Phước Báo Hiện Tiền



Dắt một người mù qua đường, cho người đứt tay miếng giẻ rách, lượm cây gai giữa đường, cho con kiến hạt cơm, đều gọi là bố thí.

Ngày xưa ở xứ Hòa Na, dân chúng phần nhiều tín ngưỡng Phật giáo. Có vợ chồng chàng Kế Sa La cũng nhờ ảnh hưởng tinh thần ấy, mà nổi tiếng đôi vợ chồng hiền đức.

Nhà Kế Sa La rất nghèo, hằng ngày phải vất vả hai sương một nắng, tranh đấu với bát cơm manh áo; nhưng vợ chồng vẫn vui vẻ thân mật, an phần trong cảnh thanh bần, không bao giờ vì tiền tài danh vọng, mà làm hoen ố được lòng trong sạch của đôi vợ chồng chàng. Ngoài ra, chàng lại không quên đem chánh pháp mà mình đã hiểu biết, khuyến khích mọi người trở về đường thiện; mà chàng có thể đảm đương.

Thuở ấy, miền ngoại ô xứ Hoà Na vừa bị mất mùa, lại thêm nạn tật dịch, nên dân chúng miền ấy đói và chết rất nhiều. Các nhà hảo tâm trong xứ hiện thời, hoặc chung hoặc riêng, đến chùa tổ chức nhiều cuộc bố thí. Trước nhờ các Tăng sĩ cầu nguyện cho những kẻ vừa bỏ mình vì tật dịch được siêu thoát và nạn tật dịch đương hoành hành mau chấm dứt; sau đem các phẩm vật phân phát cho các nạn nhân đói khổ.

Vì vất vả theo sinh kế, vả lại cũng ít lui tới các phương xa, nên nạn tật dịch đói kém hoành hành ở  ngoại ô vợ chồng Kế Sa La không hay biết gì cả.

Theo lệ thường, sáng nào Kê Sa La cũng cùng vợ chia nhau đến các nhà điền chủ để làm mướn. Nhưng lạ thay, sáng nay Kế Sa La đi một đoạn đường lại gặp những vị trưởng giả, khăn áo chỉnh tề, theo sau những tên gia đinh hì hục mang gánh gạo cơm mền áo... gặp hai ba phen như thế, Kế Sa La khống ngớt ngạc nhiên, dừng lại hỏi: Chàng mới biết vùng ngoại ô đang bị nạn và những bậc trưởng giả này đem các phẩm vật đến chùa để mở cuộc bố thí. Bị kích thích bởi tình đồng loại, lại thêm tủi cho số phận nghèo nàn của mình; trong khi đồng bào đang lâm cơn đói khổ mà mình không có một quan tiền, một đấu gạo, một viên thuốc đỡ đần. Càng nghĩ chàng càng đau đớn sầu tủi! Trong trí chàng hiện ra nhiều dấu hỏi: làm thế nào có tiền để giúp đồng loại? Và chàng nguyện rằng: nếu làm cách nào có tiền gạo để bố thí dù thân bị đọa đày suốt đời chàng cũng vui lòng đổi lấy. Ðến đây, Kế Sa La không còn thiết gì đến ăn làm nữa, lủi thủi về nhà.

Tối đến vợ chàng về, thấy chồng mặt mày ủ rũ, ngồi một mình thở ngắn than dài hình như bất đắc chí vì một việc gì... Chị vợ lo sợ hỏi chồng, nhưng chàng tìm cơ thối thoát không trả lời, vì chàng biết trước rằng: nếu đem sự thật nói với vợ, đã không ích gì mà lại gieo thêm cho vợ mối sầu tủi như mình, nhưng sau hai ba phen thiết tha gạn hỏi của vợ, Kế Sa La không nở giấu giếm nữa mới đem đầu đuôi câu chuyện thuật lại vợ nghe. Vợ chàng không kém gì chàng, cũng sầu, cũng tủi, cũng thở than như chàng! Nhưng sau một hồi suy nghĩ, chị vợ hăng hái nói: nếu chàng bằng lòng chị ta sẽ đến giúp việc cho các nhà phú hộ, thế nào cũng nhận đặng một số tiền, để làm việc bố thí. Kế Sa La không tán thành, và chàng không nở để cho vợ: nữ nhi yết ớt một mình đem thân thể làm tôi mọi người.

Chị vợ lại nói: Hay là cả chúng ta đều đến ở giúp việc cho một nhà đại phú, trước nhận được một số tiền lớn để bố thí, sau có thể giúp đỡ nhau trong những công cuộc nặng nề. Ý kiến này được Kê Sa La hoan hỷ tán đồng. Thế là sáng mai đôi vợ chồng Kế Sa La lên đường đến một nhà đại phú ở cạnh làng, xin giúp việc và nhận trước một số tiền.

Vốn nghe vợ chồng Kế Sa La là người hiền đức, nên nhà đại phú kia bằng lòng ngay và cho vợ chồng Kế Sa La mượn trước một năm quan tiền, lại được phép về nhà bảy ngày để sắp đặt công việc; và nếu trong bảy ngày ấy vợ chồng Kế Sa La đem đủ số tiền hoàn lại ông, ông cũng vui lòng trả quyền tự do cho vợ chồng chàng.

Tiền bạc giấy tờ, vợ chồng Kế Sa La hết sức vui mừng, đi vào chợ mua các phẩm vật... và đến chùa Ðàn Ba gần đấy, xin thiết lập cuộc bố thí ngay tại chùa, sau sáu ngày chú nguyện, đến ngày thứ bảy sẽ phân phát các phẩm vật.

Việc làm ấy rất thích hợp với hạnh Từ Bi, lại thấy lòng chí thành của vợ chồng Kế Sa La, nên các Tăng sĩ trong chùa đều tận tâm giúp đỡ, để cho cuộc bố thí này được thập phần viên mãn.

Chiều ngày ấy, Quốc vương bản xứ cũng cho người chuyên chở rất nhiều phẩm vật đến chùa Ðàn Ba mở hội và cũng định ngày thứ bảy bố thí. Vị Trú trì chùa Ðàn Ba tâu vua: ngày ấy đã có vợ chồng Kế Sa La định mở hội trước rồi, yên cầu nhà vua chung vào hội bố thí ấy, nếu không xin hoãn lại ngày sau. Nhà vua phán: Trẫm thiếu gì tiền bạc mà phải chung chạ với người khác và trẫm đây đường đường một vị quốc chủ, Kế Sa La nào đó lại không vì trẫm mà nhường cho trẫm được như nguyện, hay sao? Vị trú trì đem lời thuật lại với vợ chồng Kế Sa La.

Kế Sa La nhờ vị trú trì tậu lại nhà vua: Vợ chồng chàng xin chịu tội, chứ không thể thay đổi cuộc bố thí qua ngày khác.

Với ý định kiên quyết ấy, nhà vua hết sức ngạc nhiên, cho đòi vợ chồng Kế Sa La vào hỏi. Tiếp diện nhà vua, Kế Sa La đem hết cả sự tình tâu rõ là: Vợ chồng chàng đã bán mình cho một nhà địa chủ lấy tiền mở hội bố thí, đến ngày thứ tám đã chính thức làm tôi tớ cho người, không còn đi lại tự do nữa.

Nghe xong câu chuyện, nhà vua hết sức cảm phục cử chỉ của vợ chồng Kế Sa La. Ngài bùi ngùi than rằng: nếu trong quốc độ này mà được nhiều người có "tâm từ" như vợ chồng Kế Sa La, thì còn đâu những kẻ tham lam ích kỷ, lường gạt đồng bào và còn đâu những kẻ bơ vơ trong xó chợ đầu đình, lê mình khắp xứ, mà không đủ chén cơm lót dạ, manh áo che thân!

Tức thì nhà vua lại sai người đem vàng bạc ra ban thưởng và hạ chiếu cấp cho vợ chồng Kế Sa La được trọn đời hưởng quyền lợi trong mười xã. Ngài lại kêu vợ chồng Kế Sa La đến phán rằng: "Ðây là PHƯỚC BÁO HIỆN TIỀN" của hai người đó và trẫm vui lòng nhượng hai người mở cuộc bố thí vào ngày thứ bảy để cho hai người được toại nguyện".

Vợ chồng Kế Sa La cảm động lạy tạ ơn vua. Và đôi vợ chồng ấy, không quên niệm hồng ân đức Phật đã tác thành cho vợ chồng chàng: "đức tánh Từ Bi, nâng cao Ðạo sống". Nên nay mới gặp nhà vua đức độ, đem lại cho vợ chồng chàng đến cuộc đời sung sướng giàu sang.


Hết
504

Thứ Sáu, 4 tháng 12, 2009

Biết Ứng Xử



Ba người đàn ông tranh luận thế nào là biết ứng xử. Một người cho rằng, có thể đánh giá bằng cách tưởng tượng ra khi ông ta về đến nhà, bắt gặp vợ đang hôn một người đàn ông khác, thì ông ta sẽ lập tức cất mũ chào người đàn ông kia, và nói:

Xin lỗi.

Chưa đủ

Người đàn ông thứ hai nói

Phải cất mũ và nói: Xin lỗi. Mời tiếp tục; mới là biết ứng xử.

Tôi chưa đồng ý với cả hai ông

Người thứ ba nói

Nếu ta ngả mũ và nói: Xin lỗi, mời tiếp tục, mà người lạ kia cứ tiếp tục thì hắn mới đúng là người biết ứng xử.

2752

Căn phòng đủ tiện nghi



Một số người sống trong một quận gạch đỏ dưới phía đông của thành phố luôn luôn thiếu ổn định, mãi trôi giạt, lang thang. Tuy vô gia cư, họ vẫn có hàng trăm chỗ ở. Họ nhảy từ phòng cho thuê này qua phòng khác (phòng nào cũng đủ tiện nghi nội thất), luôn trong cảnh lông bông, lông bông về chỗ trú ngụ, lông bông về tâm hồn và tư tưởng. Họ ca hát “Tổ ấm gia đình” trong điệu dân ca Mỹ rộn ràng, họ mang đồ tế nhuyễn trong một cái thùng đáng lẽ chỉ để đựng đồ linh tinh, dây leo làm cảnh quấn quanh cái mũ rộng vành ta thường thấy trong các bức họa, một cái cây nhỏ là cây bóng mát.

Vì thế, những ngôi nhà của quận này, với hàng nghìn nhân khẩu, có hàng nghìn câu chuyện để kể, đương nhiên, phần lớn đều vô vị, nhưng sẽ là điều lạ lùng nếu ta không thể tìm ra một vài bóng ma trong đám dân cư lông bông này.

Một buổi tối, một thanh niên lượn vòng, bấm chuông những toà nhà màu đỏ đổ nát này. Đến toà nhà thứ mười hai, anh đặt túi hành lý lép kẹp trên bậc thềm, lau cái trán đã lấm đầy bụi. Cái chuông phát ra âm thanh khe khẽ và xa xôi trong những chiều sâu nào đấy hun hút, trống rỗng.

Một người đàn bà đi ra cửa. Bà làm anh liên tưởng đến một con sâu bệnh hoạn, háo ăn háo uống đã đục khoét cả một cái quả chỉ chừa lại vỏ cứng và bây giờ đang lo kiếm khách trọ nào đấy có thể xơi được, để lấp đầy chỗ hổng. Anh hỏi bà có phòng trống cho thuê hay không.

Bà trả lời, tiếng phát ra từ cổ họng, cổ họng dường như được lót lông thú:

- Mời vào. Tôi có tầng ba, phía sau, đã trống một tuần nay. Anh muốn xem không?

Người thanh niên theo bà đi lên cầu thang. Một luồng ánh sáng nhợt nhạt không rõ phát ra từ đâu lắp bớt những khoảng tối trong các hành lang. Họ bước không một tiếng động nào trên một tấm thảm mà cái khung cửi dệt của nó hẳn phải không dám nhìn nhận nó nữa. Dường như tấm thảm đã trở nên một loài thực vật, trong bầu không khí nặng không hề có ánh mặt trời, nó đã bị thoái hoá thành một lớp địa y lùm xùm hay rêu lan tràn mọc từng mảng đến tận cầu thang, nó trơn nhớt dưới chân như là một chất hữu cơ. Ở mỗi chỗ ngoặt của cầu thang là những hốc lõm trên tường. Có lẽ một loại cây cỏ nào đó đã từng mọc trong đấy. Nếu đúng thế, hẳn mấy cây cỏ đó đã tàn lụi trong bầu không khí hôi hám. Có thể có những bức tượng của các vị thánh đã được đặt ở đấy, nhưng ta có thể suy luận dễ dàng là ma quỷ đã lôi họ qua bóng tối xuống những vực sâu có trang bị đồ đạc trần tục ở phía dưới.

Bà chủ nói qua cổ họng được lót lông thú:

- Phòng này đây. Phòng này tốt lắm. Ít khi trống. Mùa hè vừa rồi có người đứng đắn thuê - không gây rắc rối gì cả, lại còn trả tiền trước. Nước ở cuối hành lang. Sprowls và Mooney đã thuê ở đây ba tháng. Họ diễn trên sân khấu văn nghệ tạp kỹ. Cô B’retta Sprowls - chắc ông có nghe nói đến cô ấy - À, mà đấy chỉ là tên sân khấu - trên tủ quần áo ngay đây là nơi họ treo giấy hôn thú, có đóng khung đàng hoàng. Vòi ga ở đây, có nhiều tủ quần áo, ông thấy đấy. Ai cũng thích phòng này. Không mấy khi trống.

- Bà có nhiều nghệ sĩ sân khấu thuê phòng ở đây không?

- Họ đến rồi đi. Giới sân khấu có thuê một số phòng ở đây. Đúng thế, ông ạ, nơi đây là quận sân khấu. Mấy diễn viên không bao giờ ở lâu một chỗ nào cả. Một số có thuê ở đây. Vâng, họ đến rồi đi.

Anh thanh niên nhận thuê phòng, trả trước một tuần. Anh bảo anh cảm thấy mệt và muốn nhận phòng ngay. Anh đếm tiền. Bà chủ bảo phòng đã sẵn sàng, ngay cả khăn lau và nước đều sẵn sàng. Khi bà chuẩn bị ra ngoài, anh thanh niên hỏi câu hỏi anh đã có trên đầu môi cả nghìn lần:

- Có một cô gái trẻ - Cô Vashner, cô Eloise Vashner - bà có nhớ cô đã đến thuê ở đây không? Rất có thể cô hát trên sân khấu. Da trắng, tầm vóc trung bình, với tóc vàng kim đo đỏ và một bớt sẫm gần lông mày bên trái.

- Không, tôi không nhớ tên. Giới sân khấu thay đổi tên liên tục cũng như họ thay đổi phòng. Họ đến rồi đi. Không, tôi không nhớ tên này.

Không. Luôn luôn là không. 5 tháng điều tra liên tục rồi không tránh khỏi vô vọng. Bỏ rất nhiều thì giờ ban ngày để hỏi han mấy ông bầu, nhân viên đại diện, trường kịch nghệ, ban hợp xướng. Ban đêm trà trộn trong số khán giả của các sân khấu từ những nhà hát đầy ngôi sao đến các phòng ca nhạc hạ cấp. Anh, người yêu cô nhất trần đời, đã cố công tìm kiếm cô. Anh chắc chắn là từ khi cô biến khỏi nhà, thành phố thênh thang bao quanh toàn là nước này chứa chấp cô ở đâu đấy, nhưng nó như là một vũng lầy khủng khiếp, luôn luôn xoáy động, không có nền chắc chắn, các vật thể nổi hôm nay bị chìm lấp ngày mai trong bùn nhớt.


Căn phòng đủ tiện nghi nội thất đón người khách mới nhất với tia sáng đầu tiên của lòng hiếu khách giả tạo, một thái độ chào đón tất bật, hốc hác, máy móc như là nụ cười đặc biệt của một ả giang hồ. Sự thoải mái hiện đại đến từ ánh sáng phản chiếu từ đồ nội thất rã mục, tấm nệm thêu xơ xác của cái phô-tơi và hai chiếc ghế, tấm gương soi toàn thân rẻ tiền đặt giữa hai cửa sổ, từ một hai khung ảnh sỗ sàng và khung giường bằng đồng đặt ở góc phòng.

Người khách trọ ngồi ngả người trên ghế, bất động, trong khi căn phòng, hoang mang trong ngôn từ như thể là một phòng trọ trong Tháp Babel, cố gắng thuyết minh về chức năng cho thuê đa dạng của nó.

Cái tấm thảm với lắm mùi khác nhau, hình chữ nhật thêu hoa, giống như hòn đảo vùng nhiệt đới bao quanh bởi một vùng biển là tấm lót sàn vấy bẩn, phồng lên chỗ này, tọp xuống chỗ nọ. Trên bức tường dán giấy màu tươi sáng là những tấm hình đi theo những người vô gia cư từ nhà này đến nhà nọ. Những góc cạnh đạo mạo một cách khắc khổ của cái bệ lò sưởi bị che phủ một cách tồi tệ trong cái màn cửa theo mốt thời trang, bị kéo xệch dúm dó về một bên cứ như là tấm vải choàng của vũ nữ ba lê vùng rừng già Amazon ở Nam Mỹ. Trên cái bệ là xác một con tầu chỏng chơ được mang vào bờ khi một cánh buồm may mắn mang chúng đến bến cảng tươi mát - một hai bình hoa vô duyên, ảnh của mấy diễn viên, một lọ thuốc, vài lá bài tây lạc lõng khỏi cỗ bài.

Khi bản mật mã trở nên rõ ràng từ chữ này qua chữ khác, những dấu hiệu nhỏ nhoi còn sót lại sau cuộc diễu hành của những người khách trọ trong căn phòng đủ tiện nghi nội thất trở nên có ý nghĩa. Cái khoảnh tấm thảm xơ xác trước cái bàn phấn bảo rằng những người phụ nữ dễ thương đã đến hàng đoàn. Những dấu tay bé tí trên bức tường nói đến những tù nhân nhỏ tuổi cố lần mò tìm đường ra ánh nắng và không khí. Một vết bẩn vương vãi, toả ra như cái bóng của một bom bùng nổ, là chứng tích của một cái cốc hay chai va vào, tung toé ra lên tường chất đựng bên trong. Trên mặt gương soi toàn thân là tên người “Marie” viết nghệch ngoạc bằng kim cương. Dường như lần lượt những khách trọ trong căn phòng đủ tiện nghi đã trút ra cơn giận dữ - có lẽ không thể chịu nổi vẻ lạnh lùng hào nhoáng rẻ tiền của nó - và đem tất cả cuồng nhiệt ra phá phách. Bàn ghế tủ giường bị đẽo gọt và trầy trụa, cái ghế bành bị móp méo vì mấy lò xo bung ra, trông như là con quái vật khủng khiếp đã bị sát tử trong cơn quằn quại loạn cuồng. Một cơn quấy động nào đấy lộ liễu hơn đã sớt cái bệ lò sưởi đi một lát lớn. Mỗi thanh gỗ sàn tạo một mảng riêng rẽ và kêu thét như là trong cơn đau đớn riêng biệt của từng cá thể. Có vẻ khó tin là những người có thời từng gọi căn phòng này là “nhà” lại có ác ý gây ra bao đau thương như thế cho căn phòng. Và tuy nhiên, có thể là bản năng do ý niệm về “nhà” bị lừa gạt - vốn đã tồn tại một cách đui mù sau cơn giận dữ đầy bất bình đối với cơn phẫn nộ của những người ở trọ. Nếu ta là chủ một túp lều, ta vẫn quét dọn, trang hoàng và giữ gìn nó.

Anh khách trẻ ở trọ, gọn người trong ghế, để những ý tưởng như thế lướt qua êm ái trong đầu anh, trong khi những âm thanh và những mùi hương - đều có đủ tiện nghi nội thất - lan toả vào căn phòng. Anh nghe trong một căn phòng tiếng khúc khích và chuỗi cười vang buông thả không kiềm chế, trong những phòng khác một giọng độc thoại trách mắng, tiếng xúc xắc lanh canh, tiếng ru con và một tiếng khóc sụt sùi, tầng trên là tiếng đàn banjo gầy đầy nhiệt tình. Ở đâu đấy có những cánh cửa đóng sầm; cái thang máy kêu thét không ngừng, một con mèo rên rỉ thảm hại trên hàng rào sân sau. Và anh thở hơi thở của toà nhà - hương vị ẩm lạnh hơn là một mùi - vị nồng nồng lạnh lẽo, mốc meo như thể từ những hố ngầm dưới đất pha trộn với hương sực nức của véc-ni và đồ gỗ mục nát đã lên nấm mốc.

Và thình lình, khi anh ngả người như thế, mùi hoa mignonette ngọt dịu tràn ngập căn phòng. Mùi hương dường như đến theo một cơn gió thoảng, với sự chắc chắn, thơm tho và khẳng định thành một hương vị khác có sự sống. Và người con trai thốt lên: “Gì thế, hở em yêu?” như thể là có tiếng gọi anh, rồi anh đứng bật dậy, nhìn chung quanh. Mùi hương nồng nàn bám lấy anh và bao quanh lấy anh. Anh dang cả hai tay ra đón nó, mọi tri giác của anh trong nhất thời đều bị hoang mang, trộn lẫn. Làm thế nào một mùi hương có thể gọi được anh? Chắc chắn, đấy phải là một linh hồn. Nhưng mà, có phải đấy là một âm thanh đã chạm đến anh, đã ve vuốt anh?

“Nàng đã ngụ ở phòng này”, anh thốt lên và bật người ra để níu lấy một ít, vì anh biết anh có thể nhận ra cái gì đấy dù nhỏ nhặt nhất thuộc về nàng hay cái gì đấy nàng đã chạm tay đến. Mùi hương mignonette này, mùi hương nàng vẫn yêu thích và biến thành mùi của riêng nàng, đã từ đâu đến?

Căn phòng đã được dọn dẹp một cách cẩu thả. Vương vãi trên chiếc khăn mỏng dính đậy cái bàn phấn là khoảng nửa tá kim cài tóc - những người bạn thầm kín, khó phân biệt nhau của giới phụ nữ, thuộc phái yếu, với cảm hứng vô hạn và một thể ngôn ngữ không thể truyền thông được. Anh bỏ qua những món này, hiểu rõ chúng hoàn toàn thiếu khả năng chứng minh ai là ai. Khi lục lọi trong mấy ngăn kéo của cái bàn phấn, anh tìm thấy một khăn tay nhỏ bị vứt bỏ, nhàu nát. Anh áp nó vào mặt mình. Nó có mùi cây vòi voi nồng nặc xấc xược, anh ném nó xuống sàn nhà. Trong một ngăn kéo khác anh tìm ra vài cúc áo, một tờ chương trình nhà hát, một thẻ cầm đồ, hai mẩu kẹo đường, một lô cuốn sách nói về cách đoán mộng. Trong ngăn kéo cuối cùng là một kẹp tóc bằng vải sa-tanh đen, khiến anh dừng tay, vội bốc lấy nó, giữa băng giá lạnh và lửa nóng cháy. Nhưng cái kẹp tóc cũng chỉ là loại trang sức của nữ giới, khiêm tốn, thông thường và vô nhân cách, không nói lên được điều gì.

Và rồi anh lùng sục khắp phòng như con chó săn đánh hơi con mồi, lướt qua bức tường, bò trên hai chân và hai tay để xem xét từng góc kẹt của tâm trải sàn phập phồng sục sạo cái bệ lò sưởi và mấy cái bàn, màn cửa, màn treo, cái tủ nhỏ ở góc phòng, để tìm kiếm một dấu vết sinh động, dù anh không thể nhận ra là nàng đã ở bên anh, xung quanh anh, tựa vào anh, ở trong anh, bên trên anh, bám lấy anh, âu yếm với anh, gọi anh qua mọi cảm nhận tính tế hơn, đến nỗi ngay những giác quan đơn sơ nhất của anh cũng nhận được tiếng gọi. Một lần nữa, anh trả lời: “Vâng, em yêu!”, và quay người, đôi mắt rừng rực, để nhìn vào khoảng không, vì lẽ anh không thể nhận ra bóng hình, màu sắc tình yêu và đôi vòng tay mở rộng trong mùi hương của hoa mignonette. Ôi, Chúa ơi! mùi hương ấy đến từ đâu và từ bao giờ mùi hương có tiếng nói để kêu gọi? Thế là anh lần mò xung quanh.

Anh vùi mình trong các kẽ ngách và góc kẹt và tìm thấy nút chai và những điếu thuốc lá. Anh bóp chúng bẹp gí trong khinh rẻ. Nhưng có lúc anh tìm thấy trong một nếp gấp của tấm trải sàn nhà một điếu xì-gà đã hút dở và anh lấy chân chà nó với tiếng càu nhàu sắc lạnh. Anh sàng lọc cả căn phòng từ đầu này sang đầu kia. Anh tìm thấy những chứng tích lặt vặt đáng chán và hạ cấp của nhiều khách trọ lãng tử, trong khi không thấy dấu vết nào của một người có thể đã thuê phòng ở đây, người mà linh hồn dường như lảng vảng quanh đây.

Và rồi anh nghĩ đến bà chủ nhà. Anh chạy từ căn phòng bị ma ám xuống mấy bậc thang, đến một cánh cửa có khe nứt toả sáng ra ngoài. Bà chủ nhà ra mở cửa. Anh cố gắng trấn áp nỗi xúc động. Anh van nài:

- Bà có thể cho tôi biết, ai đã thuê căn phòng đó trước khi tôi đến?

- Vâng, thưa ông. Tôi có thể cho ông biết lần nữa. Đấy là Sprowls và Mooney, như tôi đã nói. Tôi nói cô B’retta Sprowls trình diễn ở các nhà hát, nhưng thực ra là bà Mooney. Nhà của tôi nổi tiếng là đứng đắn. Giấy hôn thú, có đóng khung, treo vào cái đinh bên trên.

- Cô Sprowls là người như thế nào - ý tôi muốn nói về ngoại hình?

- Sao cơ? Tóc đen, thưa ông, thấp người, tròn trĩnh, với khuôn mặt trông khôi hài. Họ đã đi ngày thứ ba tuần rồi.

- Và trước họ, ai đã ở đấy?

- Sao cơ? Đấy là một ông làm nghề khuân vác. Ông ta đi mà còn thiếu tiền thuê phòng một tuần. Trước ông là cô Crowder và đứa con của cô ấy, họ ở bốn tháng. Trước nữa là ông Doyle, tiền phòng do các đứa con trả. Ông thuê trong sáu tháng. Đấy là một năm nay, trước nữa thì tôi không nhớ.

Anh cảm ơn bà và lủi thủi trở về phòng. Căn phòng đã chết. Hương thơm cho nó sự sống đã không còn nữa. Mùi hương hoa mignonette đã ra đi. Thay vào đấy là mùi cũ kỹ, nặng nề của đồ đạc lên mốc meo, của bầu không khí ngột ngạt như là trong kho hàng.

Hy vọng tàn rụi đã làm cạn kiệt mọi niềm tin của anh. Anh ngồi nhìn chăm chăm ngọn đèn ga vàng vọt. Rồi anh đi đến cái giường và xé tấm vải giường ra thành từng dải nhỏ. Dùng cái sống của một con dao, anh nhét từng dải vào từng khe hở của các cửa sổ và cánh cửa chính. Khi mọi chỗ đã được lèn chặt, anh tắt ngọn lửa, mở vòi ga hết mức, rồi lên nằm một cách thoải mái trên giường.

*

Đấy là đêm bà McCool cảm thấy thèm bia. Thế là bà đi lấy một lon đến ngồi bên bà Purdy, tại một góc cô tịch dưới tầng hầm nơi các bà chủ nhà tụ họp và nơi con sâu tham lam ít khi chết đói. Bà Purdy nói, qua một vòng tròn bọt bia li ti:

- Tối nay tôi đã cho thuê được căn phòng trên tầng ba. Một anh thanh niên đến thuê. Anh ta đi ngủ cách đây hai giờ rồi.

Bà McCool nói với lòng thán phục:

- Thật à, bà Purdy? Bà tài lắm mới có thể cho thuê loại phòng như thế.

Và McCool thì thầm, đầy vẻ bí ẩn, thêm câu hỏi:

- Thế thì bà có nói cho anh ta biết không?

Bà Purdy nói, cổ họng càng như được lót thêm lông thú dày nhất:

- Có phòng là phải trang bị để cho thuê. Tôi không nói cho anh ấy biết bà McCool ạ.

- Bà nói đúng lắm, có cho thuê phòng thì những người như chúng ta mới sống được. Bà có đầu óc kinh doanh độc đáo lắm. Nhiều người có thể từ chối căn phòng đó nếu họ biết là đã có khách tự tử và nằm chết trên cái giường trong đấy.

- Như bà nói, chúng ta phải lo kiếm sống.

- Thật vậy bà ạ. Đúng một tuần trước tôi đã giúp bà trải lại tấm lót sàn. Một cô gái xinh xắn mảnh dẻ tự tử bằng ga thắp đèn - cái cô có khuôn mặt nhỏ nhắn đấy, bà Purdy.

Bà Purdy đồng tình nói nhưng pha chê bai:

- Cô ấy có thể được xem là đẹp, như bà nói, nếu không có cái bớt trên lông mày bên trái. Dùng thêm bia đi, bà McCool.
234

Nhận xét mới nhất

Bài viết xem nhiều nhất

Chuyên mục

data truyen ngan

Được tạo bởi Blogger.

Tag Cloud

HOT